Thiết kế Hawker Hunter

Tổng thể

Hunter có cấu trúc đơn thân thông thường, được làm hoàn toàn bằng kim loại. Phi công được trang bị ghế phóng Martin-Baker 2H hoặc 3H, ở phiên bản huấn luyện hai chỗ lại được trang bị ghế phóng Mk 4H. Phần thân phía sau của máy bay có thể tháo rời được để bảo trì động cơ. Lối dẫn không khí vào động cơ nằm ở gốc cánh, có dạng tam giác. Cánh xuôi sau góc 35°, cánh đuôi ngang cũng xuôi sau. Máy bay có một bộ phanh khí đặt ở ngay sau đoạn giữa của thân trên các phiên bản sản xuất.[9]

Cụm pháo ADEN 30 mm tháo rời của Hunter

Phiên bản chính của Hunter là FGA.9, các phiên bản xuất khẩu được chế tạo dựa chủ yếu vào phiên bản này. Dù Supermarine Swift bước đầu đã đạt được những thuận lợi về chính trị,[13] nhưng Hunter lại chứng tỏ nó thành công nhiều hơn, nó có thời gian phục vụ dài do chi phí vận hành và bảo trì thấp.[14] Hunter phục vụ cho RAF trên 30 năm, cuối năm 1996 vẫn còn hàng trăm chiếc Hunter vẫn còn hoạt động trên khắp thế giới.[15]

Vũ khí

Phiên bản tiêm kích một chỗ của Hunter được trang bị 4 pháo ADEN 30 mm, mỗi khẩu có 150 viên đạn. Pháo và đạn được đặt trong một cụm đơn có thể tháo rời được từ máy bay nhằm dễ dàng, thuận tiện hơn khi bảo trì và nạp đạn.[16] Trong phiên bản hai chỗ hoặc mang 1 pháo ADEN hoặc mang 2 khẩu với thùng đạn tháo rời được, trong phiên bản xuất khẩu thường có 2 khẩu ADEN. Một radar đo cự ly đơn giản EKCO được lắp ở mũi. Các phiên bản sau của Hunter được lắp các thùng SNEB gắn ngoài mang đạn phản lực 68 mm (2,68 in), mỗi thùng có 18 quả đạn, những thùng đạn phản lực này giúp máy bay có khả năng tấn công các mục tiêu mặt đất.[17]

Động cơ

Phần thân phía sau có thể tháo rời được giúp bảo trì động cơ dễ dàng hơn

P.1067 bay lần đầu vào ngày 20/7/1951 từ căn cứ RAF Boscombe Down, nó sử dụng một động cơ Avon 103 có lực đẩy 6.500 lbf (28,91 kN) lấy từ một máy bay ném bom English Electric Canberra.[8] Mẫu thử thứ hai lắp động cơ tuabin Avon 107 có lực đẩy 7.550 lbf (33,58 kN). Mẫu thử Hunter thứ ba lắp động cơ Armstrong Siddeley Sapphire 101 có lực đẩy 8.000 lbf (35,59 kN).[8] Phiên bản sản xuất của Hunter được trang bị động cơ Avon hoặc Sapphire.[9]

Lúc đầu khi Hunter được đưa vào trang bị, khả năng tăng tốc của động cơ Avon khá tồi, và hiện tượng hóc khí máy nén xảy ra khi pháo khai hỏa đôi khi dẫn tới cháy động cơ.[18] Giải pháp đưa ra để khắc phục vấn đề này là giảm lượng nhiên liệu đưa vào động cơ khi pháo khai hỏa, giải pháp này có tên gọi là "fuel dipping".[19] Mặc dù động cơ Sapphire khi bị các vấn đề phát hỏa như của Avon và tiết kiệm nhiên liệu hơn, nhưng những chiếc Hunter lắp động cơ Sapphire hay gặp phải các lỗi về động cơ. RAF đã chọn Avon để đơn giản hóa việc cung cấp phụ tùng và bảo trì, khi động cơ Avon được lắp trên các máy bay ném bom Canberra.[20]

Để đáp ứng nhu cầu tăng lực đẩy trên loạt động cơ Avon 100 của RAF, hãng Rolls-Royce đã phát triển loạt động cơ Avon 200. Đây cũng là thiết kế mới hoàn toàn, được lắp máy nén khi mới để giải quyết hiện tượng trào nhiên liệu, có buồng đốt hình khuyên và hệ thống kiểm soát nhiên liệu cải tiến. Động cơ Avon 203 tạo lực đẩy lên tới 10.000 lbf (44,48 kN) và là động cơ được trang bị cho phiên bản Hunter F.6.[21]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hawker Hunter http://www.pacific-hunter-aviation.com.au/sales1.h... http://www.pacific-hunter-aviation.com.au/titlesqn... http://www.lw.admin.ch/internet/luftwaffe/de/home/... http://www.deltajets.com/ http://www.flightglobal.com/pdfarchive/view/1954/1... http://www.flightglobal.com/pdfarchive/view/1962/1... http://news.google.com/newspapers?id=cilgAAAAIBAJ&... http://www.hunterteam.com/ http://www.hunterteam.com/aircraft_technical_data.... http://www.incredible-adventures.com/capetown_thun...